Chuồn chuồn kim là gì? Các loại chuồn chuồn kim ở Việt Nam

 Cùng Thế giới động vật tìm hiểu Chuồn chuồn kim là gì? Các loại chuồn chuồn kim ở Việt Nam trong bài viết dưới đây nhé!

Chuồn chuồn kim là gì? Các loại chuồn chuồn kim ở Việt Nam


1. Chuồn chuồn kim là gì?

chuồn chuồn kim , (phân bộ Zygoptera), bất kỳ loài côn trùng ăn thịt, bay trên không nào thuộc bộ Odonata . Chuồn chuồn kim chủ yếu được tìm thấy gần môi trường sống nước ngọt nông và là loài bay duyên dáng với thân hình mảnh khảnh và đôi cánh dài, mỏng, có gân lưới. Chuồn chuồn kim thường nhỏ hơn, mỏng manh hơn và bay yếu hơn so với chuồn chuồn (phân bộ Anisoptera). Màu sắc của chúng có thể vô cùng sống động. Sải cánh của 2.600 loài chuồn chuồn kim dao động từ 18 mm (0,71 inch) đến khoảng 19 cm (7,5 inch) ở Megaloprepus caerulatus , một loài chuồn chuồn kim khổng lồ ở vùng nhiệt đới Trung và Nam Mỹ.

Vòng đời của Odonate. Nhấp vào từng giai đoạn để xem chi tiết.
Vòng đời của Odonate. Nhấp vào từng giai đoạn để xem chi tiết.
Chuồn chuồn kim thường có thể phân biệt với chuồn chuồn kim nhờ phần bụng mỏng hơn, giống như kim và cách chúng giữ cánh khi nghỉ ngơi. Ngoại trừ một số ít trường hợp, chuồn chuồn kim giữ cánh theo chiều dọc và khép lại, thay vì theo chiều ngang và xòe ra. Ngoài ra, bốn cánh gần như giống hệt nhau về kích thước và hình dạng cũng như các hoa văn gân. Đôi mắt to của chuồn chuồn kim khác với chuồn chuồn kim ở chỗ chúng luôn cách xa nhau, thay vì gần nhau hoặc chạm vào nhau.

ấu trùng chuồn chuồn kim
1 trong 2
Chuồn chuồn chuồn chuồn chui ra khỏi kén
2 trong 2
Chuồn chuồn kim chưa trưởng thành, được gọi là ấu trùng (hoặc đôi khi là nhộng hoặc naiad), là, với rất ít trường hợp ngoại lệ, động vật ăn thịt dưới nước trong môi trường nước ngọt như ao, suối và thậm chí là hốc cây. Ấu trùng bắt con mồi bằng cách bắn ra môi dưới dài, có bản lề hoặc "mặt nạ". Ấu trùng chuồn chuồn kim có thể phân biệt với ấu trùng chuồn chuồn bằng bộ máy hô hấp của nó. Hầu hết chuồn chuồn kim thường có ba mang giống như lá ở đầu bụng, trong khi chuồn chuồn có mang bên trong. Sau khi thoát khỏi giai đoạn ấu trùng, chuồn chuồn kim bay lên không trung để kiếm ăn và giao phối.

Thiên nga câm với thiên nga con. (chim)
Trắc nghiệm Britannica
Ghép con vật con với mẹ của nó
các bộ phận của một con chuồn chuồn trưởng thành
1 trong 2
Sinh sản của Odonate: chuồn chuồn ở tư thế "bánh xe"
2 trong 2
Những con trưởng thành săn mồi khi đang bay, chủ yếu là các loài côn trùng nhỏ. Chúng là loài ăn không phân biệt ngoại trừ các thành viên của một họ (Pseudostigmatidae), là những loài chuyên bắt nhện từ mạng của chúng. Ở một số loàigiao phối được tiến hành sau màn tán tỉnh công phu của con đực. Trong hai gia đình, con đực bay lượn trước con cái trong khi phô bày đôi cánh, bụng hoặc chân có màu sắc rực rỡ của mình, đôi khi kết hợp với nhau. Để giao phối, chuồn chuồn kim kết hợp với nhau theo tư thế "bánh xe" và thường bay song song theo cách này. Sau đó, con đực thường sẽ bám chặt vào con cái khi nó đẻ trứng. Khi làm như vậy, nó giữ chặt phần trước ngực của con cái, sử dụng các móc nằm ở đầu bụng của mình.

Đẻ trứng (đẻ trứng): chuồn chuồn ở tư thế song song
Chuồn chuồn kim cái thường sử dụng một ống đẻ trứng hình lưỡi dao để đặt trứng vào bên trong mô thực vật. Một số loài thường đẻ trứng dưới nước, đôi khi con cái vẫn chìm trong nước trong một giờ hoặc lâu hơn. Một con đực, thường là bạn tình cuối cùng của nó, thường đợi ở trên và có thể giúp nó ngoi lên khỏi mặt nước sau khi nó nổi lên mặt nước.

2. Các loại chuồn chuồn kim ở Việt Nam

Trong tổng số 17 họ Chuồn chuồn được biết ở Việt Nam hiện nay, có 11 họ chuồn chuồn kim (Zygoptera) và 6 họ chuồn chuồn ngô (Anisoptera). Một trong những họ chuồn chuồn kim có vai trò quan trọng đối với hệ sinh thái, đồng thời cũng là nhóm có màu sắc đẹp nhất là họ Chuồn chuồn cánh màu (Calopterygidae). Có 16 loài được biết hiện nay ở Việt Nam, phổ biến nhất là loài Neurobasis chinensis (Linnaeus, 1758). Con đực của loài này có đôi cánh trước có màu vàng nhạt và trong suốt, khoảng 3/4 của cánh sau màu xanh biếc, phần còn lại của cánh có màu đen sẫm. Với cơ thể hoàn toàn màu xanh, chúng có thể dễ dàng hòa lẫn vào các đám lá để trốn tránh kẻ thù.



Còn con cái của loài Neurobasis chinensis (Linnaeus, 1758) có màu xanh nhạt hơn, cánh có màu cam nhạt và hai điểm cánh màu trắng ở mép trên của cánh có thể dễ dàng quan sát. Loài rất phổ biến và phân bố ở khắp các vùng núi trong cả nước.



Giống như loài N. chinensis, loài Matrona basilaris Selys, 1953 có cơ thể màu xanh biếc óng ánh, với đôi cánh màu xanh đen ở nửa đầu cánh, phần gốc còn lại có màu xanh sáng. Ở Việt Nam, chúng phân bố chủ yếu ở các khu vực miền núi phía Bắc như Lạng Sơn (Lộc Bình), Vĩnh Phúc (Tam Đảo), Hoà Bình (Thượng Tiến, Kim Bôi), Cao Bằng (Trùng Khánh) và Phú Thọ (Xuân Sơn).



Loài Vestalis gracilis (Rambur, 1842) phân bố rộng ở vùng Đông Nam Á và miền Nam Trung Quốc. Với cơ thể màu xanh biếc, chúng có thể dễ dàng ẩn nấp trong các tán lá cây rậm rạp xung quanh bờ suối và chỉ xuất hiện bay lượn ra ngoài khi có ánh sáng mặt trời chiếu vào. Cánh của chúng thường phản chiếu màu xanh biếc óng ánh.


Một trong những loài có kích thước cơ thể to lớn và hiếm gặp là loài Calopteryx coomani (Fraser, 1935), với chiều dài sải cánh và cơ thể trên 100mm. Trái ngược với những loài trên, loài coomani mang một đôi cánh xanh đen to lớn và khỏe mạnh. Chúng thường sinh sống gần những con suối ở vùng núi, nơi có hệ sinh thái rừng rậm rạp và gần nguyên vẹn.


Con cái Calopteryx coomani (Fraser, 1935) thì lại có màu nâu sẫm, mang một đôi đốm màu trắng trên cả hai cánh. Là loài đặc hữu của miền Bắc Việt Nam, mới chỉ tìm thấy loài này ở Vĩnh Phúc (Tam Đảo), Hà Tây (Tản Viên), Hà Giang (Việt Vinh) và Phú Thọ (Xuân Sơn).


Mặc dù loài Vestalis miao (Wilson & Reels, 2001) khá phổ biến ở Nam Trung Quốc, nhưng ở Việt Nam mới chỉ ghi nhận được ở hai địa điểm là Khu bảo tồn Thiên nhiên Hữu Liên (Lạng Sơn) và Vườn quốc gia Xuân Sơn (Phú Thọ). Cánh của con trưởng thành vừa lột xác từ ấu trùng có màu cam đặc trưng, và trở thành trong suốt không màu khi thành thục. Phần mút đuôi của con đực có màu trắng đặc trưng cho loài.

Con đực Vestalis miao (Wilson & Reels, 2001)

Loài Mnais mneme Ris, 1916 là một trong những loài chuồn chuồn cánh màu đẹp nhất, mang đôi cánh rộng màu đỏ tươi, óng ánh dưới ánh sáng mặt trời. Mới chỉ ghi nhận được ở Cao Bằng, Quảng Ninh, Hà Tĩnh, Quảng Bình và Thừa Thiên Huế.

Họ Chuồn chuồn mũi cao (Chlorocyphidae), giống như tên gọi, có đặc điểm nổi bật là phần trước mặt lồi lên tạo thành một dạng “mỏ” (hoặc mũi) nhô lên cao. Có 13 loài được biết đến ở Việt Nam hiện nay. Là những loài có kích thước nhỏ, cơ thể nhiều màu sắc và thường sinh sống ở các con suối sạch ở trong rừng. Phổ biến và thường gặp nhất là loài Rhinocypha fenestrella (Rambur, 1842). Phần ngực và bụng của loài này có màu đen sẫm, mặt trên của ngực có đốm tím tam giác dễ nhận biệt, hai bên có các sọc nhỏ màu vàng; cánh hẹp và trong suốt ở gốc, rộng hơn về sau và có màu xanh đen xen lẫn với các mảng màu tím óng ánh. Mặt trước của các chân có vệt màu trắng, có chức năng giúp con đực “khoe mẽ” trong hoạt động ve vãn và giao phối với con cái. Con cái của các loài trong họ này thường có màu sắc và ảnh dạng tương tự nhau, với phần bụng và ngực màu vàng, cùng đôi cánh trong suốt.


Trên đây Thế giới động vật đã giới thiệu Chuồn chuồn kim là gì? Các loại chuồn chuồn kim ở Việt Nam. Comment ngay ý kiến nhé!

Post a Comment

أحدث أقدم